KHÁM PHÁ HÀNG THẬP KỶ KIỀU HÀNH TRÌNH ĐỔI MỚI TỪ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐẾN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN VIỆT NAM NHIỀU THAY ĐỔI

HÀNH TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN DÂN GIÀU, NƯỚC MẠNH

Ngay sau khi đất nước giành độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ ràng: làm cho người nghèo đủ ăn, người đủ ăn khá giàu, người giàu thêm giàu. Câu nói đó như một lời tiên tri về mục tiêu phát triển mà toàn Đảng, toàn dân đã kiên trì theo đuổi suốt hơn 80 năm qua, đặc biệt trong công cuộc đổi mới bắt đầu từ những năm 1986.

Tư tưởng của Hồ Chí Minh hoàn toàn khác biệt với chủ nghĩa giáo điều. Từ năm 1920, Người chọn Quốc tế III không phải do hệ thống lý thuyết, mà vì nó chỉ rõ con đường giải phóng dân tộc. Người nói rõ: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu.” Từ năm 1925, Người đã đề cập trong Điều lệ Thanh niên Cách mạng đồng chí hội về việc thành lập Chính phủ Nhân dân và áp dụng nguyên tắc “Tân kinh tế”, lấy cảm hứng từ mô hình kinh tế của Lênin – sự manh nha của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày nay.

Theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội không hề xa lạ với thực tế, mà phải lấy lợi ích của dân làm trung tâm: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Từ năm 1945 đến 1954, trong khi chiến tranh chống Pháp diễn ra, miền Bắc vẫn áp dụng mô hình kinh tế dân chủ với nhiều thành phần, huy động toàn dân tham gia kháng chiến và kiến quốc. Chỉ sau năm 1954, miền Bắc mới bắt đầu thực hiện kinh tế kế hoạch để phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong bối cảnh chiến tranh, bao vây cấm vận từ phía Mỹ và các lực lượng phương Tây, cộng thêm cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới và giúp Campuchia chống diệt chủng.

Trong giai đoạn này, không thể phủ nhận vai trò lịch sử của nền kinh tế kế hoạch. Nền tảng quản lý kinh tế chủ yếu được đào tạo tại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Điều này dẫn đến nạn trì trệ, thiếu sáng tạo và làm lệ thuộc vào nguyên tắc kế hoạch cứng nhắc, không quan tâm đúng mức đến nhu cầu của nhân dân. Nhiều lãnh đạo như Lê Duẩn, Võ Chí Công đã có những ý kiến và hành động nhằm tháo gỡ các vấn đề bất cập này, thúc đẩy cải cách từng bước.

Chính sách khoán sản phẩm, từ “khoán chui” đến các cải cách rõ ràng hơn về giá, lương đã tạo bước đệm quan trọng cho sự chuyển đổi theo hướng thị trường. Các hoạt động “xé rào” dần hình thành, kích hoạt thị trường trong nông nghiệp, thúc đẩy sản xuất, làm thay đổi cục diện kinh tế. Những nỗ lực này, dù chưa hoàn toàn thoát khỏi mô hình cứng nhắc, đã đặt nền móng cho các bước tiến lớn hơn về sau.

Sau năm 1975, đất nước phải đối mặt với cấm vận toàn diện của Mỹ, chiến tranh biên giới, giúp nhân dân Campuchia đánh đuổi diệt chủng. Trong bối cảnh đó, nền kinh tế kế hoạch vẫn tiếp tục duy trì, kéo dài hơn 10 năm để giải quyết các phát sinh từ chiến tranh và cấm vận. Lúc này, phần lớn các cán bộ quản lý kinh tế đều được đào tạo theo mô hình tập trung, “toàn tòng”, thiết chế chính trị vận hành theo cơ chế quan liêu, bao cấp, làm hạn chế sáng tạo và tự chủ của các địa phương, cá nhân.

Trong thời kỳ này, các nhà lãnh đạo như Lê Duẩn, Võ Chí Công đã nhìn thấy rõ hạn chế của mô hình này. Lê Duẩn từng ủng hộ “khoán chui” và những chỉnh sửa phù hợp, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và đời sống nhân dân. Đặc biệt, sau năm 1975, nhiều ý định giữ mô hình đa thành phần ở miền Nam đã diễn ra, nhưng do thiếu sự đồng thuận trong Đảng, cả nước phải chuyển sang mô hình tập trung thống nhất. Điều này kéo dài tới năm 1986, khi đất nước mới bắt đầu nhận ra cần đổi mới toàn diện.

Chặng đường đổi mới thực sự bắt đầu từ năm 1986, khi các nhà lãnh đạo như Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt và Trường Chinh đặt nền móng cho việc xóa bỏ các thiết chế cũ của kinh tế kế hoạch, thúc đẩy chuyển đổi sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các chính sách khoán, giá, lương, dám đột phá “xé rào” đã tạo ra bước ngoặt lớn. Từ đó, đất nước bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển thần kỳ, với hơn 40 năm tiến bộ vượt bậc.

Thành tựu nổi bật nhất của công cuộc đổi mới là thành công trong xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ đói nghèo từ 70% năm 1990 đã giảm còn 2,75% vào năm 2020, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra. Đến năm 2024, tỷ lệ này còn dưới 1,9%. Thành quả này chủ yếu nhờ sự phát huy của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp chính sách hỗ trợ của nhà nước. Không thể có thành công này nếu không có sự vận hành linh hoạt của thị trường, giúp phân phối hiệu quả nguồn lực và tạo ra các cơ hội mới cho người dân.

Gần 40 năm qua, đất nước ta đã xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ các quyết sách của Đảng đến hệ thống pháp luật phù hợp, đảm bảo sự phát triển bền vững. Hiện nay, phần lớn dân cư sống no đủ, trong đó nhiều người đã giàu có, trở thành tỉ phú USD. Việc “làm cho người nghèo đủ ăn, người đủ ăn khá giàu, người giàu thêm giàu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang dần trở thành hiện thực rõ ràng.

Tổng Bí thư Tô Lâm mới đây đã nhấn mạnh về việc tháo gỡ các “điểm nghẽn” của thể chế để thúc đẩy phát triển. Đó chính là quyết tâm thực thi lời dạy của Bác Hồ: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Đối mặt với những ràng buộc không phù hợp, không hiệu quả, thất bại của mô hình cũ chính là động lực để đất nước bước tiếp những bước tiến mới, hướng tới một tương lai thịnh vượng, tự do và hạnh phúc cho nhân dân.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *