NGHỊ QUYẾT 70: CHIẾN LƯỢC HÀNH ĐỘNG ĐỂ BẢO ĐẢM AN NINH NĂNG LƯỢNG QUỐC GIA ĐẾN NĂM 2030 Và TẦM NHÌN 2045
Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 70 do Tổng Bí thư Tô Lâm ký nhằm thúc đẩy phát triển bền vững ngành năng lượng, nhấn mạnh nguy cơ thiếu điện trong giai đoạn tăng trưởng cao hai con số của đất nước. Nghị quyết chỉ rõ các tồn tại, hạn chế trong thể chế, chính sách cùng công tác quản lý ngành năng lượng còn nhiều bất cập. Tiến độ các dự án điện còn chậm, tiềm năng khai thác năng lượng chưa được tận dụng tối đa, đồng thời nguồn cung năng lượng vẫn lệ thuộc vào nhập khẩu.
Thị trường năng lượng còn chưa phát triển đồng bộ, thiếu liên thông giữa các phân ngành, đặc biệt là thị trường điện còn nhiều hạn chế. Chính sách về giá năng lượng còn bất cập, chưa phù hợp với cơ chế thị trường, nhiều nơi vẫn còn tồn tại tình trạng bù chéo giá điện đối với một số khách hàng. Bộ Chính trị cảnh báo rõ về nguy cơ thiếu điện, đồng thời yêu cầu cơ cấu lại ngành năng lượng, đẩy mạnh sửa đổi nhằm nâng cao tính cạnh tranh, minh bạch và bền vững của ngành.
Nghị quyết đề ra nhiều giải pháp nhằm đảm bảo phát triển năng lượng đến năm 2030 và hướng tới tầm nhìn dài hạn năm 2045. Trong đó, đẩy mạnh việc tái cơ cấu ngành điện, tăng cường cạnh tranh, cải thiện minh bạch và tính bền vững của thị trường năng lượng là ưu tiên hàng đầu. Phát triển cân đối các nguồn điện, đảm bảo đủ điện cho phát triển kinh tế-xã hội, đồng thời thực hiện các cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính. Đặc biệt, ưu tiên phát triển các dự án nguồn điện công suất lớn, hiệu quả cao và thân thiện với môi trường.
Nghị quyết còn nhấn mạnh tới việc thúc đẩy thị trường điện cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả, phù hợp với mục tiêu an ninh năng lượng. Các cơ chế mua bán điện trực tiếp và quyền lựa chọn của khách hàng sẽ được phát triển, nhằm tăng cường khả năng tiếp cận và cạnh tranh của đơn vị cung cấp điện. Hệ thống giao dịch điện, hợp đồng mua bán điện (PPA) minh bạch, dài hạn, ổn định cũng cần được xây dựng và hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư.
Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các dự án hạ tầng lưu trữ năng lượng như pin tích trữ, kho LNG, dự án kho xăng dầu trên đất liền và trên biển. Cơ chế giá truyền tải điện cũng sẽ được đổi mới nhằm thu hút mạnh mẽ đầu tư tư nhân vào hạ tầng lưới điện truyền tải. Ngoài ra, Nghị quyết nhấn mạnh tới việc đẩy nhanh tiến độ các dự án điện hạt nhân tại Ninh Thuận, dự kiến vận hành trong giai đoạn 2030 – 2035.
Về mục tiêu dài hạn, đến năm 2030, tổng cung năng lượng sơ cấp dự tính đạt khoảng 150 – 170 triệu tấn dầu quy đổi; các cơ sở lọc dầu đáp ứng tối thiểu 70% nhu cầu xăng dầu trong nước và dự trữ đủ xăng dầu trong khoảng 90 ngày nhập ròng. Phát triển năng lực nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) để phục vụ các nguồn điện khí LNG và các nhu cầu khác, cùng hình thành các trung tâm khí LNG tập trung theo vùng.
Các chỉ tiêu về công suất nguồn điện sẽ đạt khoảng 183 – 236 GW và sản lượng điện khoảng 560 – 624 tỷ KWh, trong đó tỷ lệ năng lượng tái tạo chiếm từ 25 – 30%. Tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng dự kiến từ 120 đến 130 triệu tấn dầu quy đổi. Hệ thống điện thông minh, an toàn, có khả năng kết nối toàn diện với lưới điện khu vực và đạt các tiêu chuẩn hàng đầu ASEAN về độ tin cậy và tiếp cận điện năng.
So với các kịch bản phát triển bình thường, tỷ lệ tiết kiệm năng lượng sẽ vào khoảng 8 – 10%, và giảm phát thải khí nhà kính từ 15 – 35%, góp phần bảo vệ môi trường và thúc đẩy nền kinh tế xanh.