TẠI SAO CẢNH NGẬP NƯỚC Ở TP.HCM NGÀY CÀNG TRẦM TRỌNG, DÙ ĐÃ NHIỀU GIẢI PHÁP ĐƯỢC ÁP DỤNG?

CHÂU ÂU HỌC HỎI, VIỆT NAM NGƯỜI ĐI TÙNG BÙNG VỀ GIẢI PHÁP CHỐNG NGẬP

Một chuyên gia về ô tô và môi trường từng công tác ở Đức cho biết, cách họ ứng phó với vấn đề ngập lụt cực kỳ sáng tạo và thực tiễn. Tại Đức, để giảm thiểu tình trạng ngập do nước mưa, chính phủ khuyến khích các hộ gia đình chỉ đổ bê tông theo vệt bánh xe trong sân, còn phần còn lại để đất thấm tự nhiên. Với mô hình này, người dân không chỉ giảm phí thoát nước mưa mà còn góp phần vào việc chống ngập tổng thể của đô thị. Các khoản phí này trung bình từ 1,5 đến 2 Euro mỗi mét vuông mỗi năm (tùy thành phố), tương ứng với diện tích bê tông không thấm nước trong khu nhà. Chính sách còn hỗ trợ người dân lắp đặt bể chứa nước mưa để tưới cây, giặt rửa và giảm giá nước máy, qua đó khuyến khích sử dụng nước mưa tự nhiên.

Ý tưởng này phản ánh rõ nét chính sách của chính phủ Đức nhằm giảm bê tông hóa, tăng cường khả năng thấm nước tự nhiên qua các quy định rõ ràng và khuyến khích cộng đồng sử dụng nước mưa. Tại các quốc gia phát triển khác như Mỹ, Anh, Úc, Singapore hay các liên minh châu Âu, chính sách này được áp dụng theo cách giảm thuế, phí và cung cấp hỗ trợ tài chính. Các dự án nhà ở và khu đô thị đều phải dành một tỷ lệ tối thiểu 20-30% diện tích cho các bề mặt thấm nước, nếu vi phạm sẽ bị từ chối giấy phép hoặc phạt nặng.

Ở nhiều đô thị lớn của các nước phát triển, hiếm có những căn nhà liền kề bỏ qua việc tạo ra diện tích thấm nước tự nhiên, trái lại họ còn tích cực cải tạo, mở rộng các khu vực này theo các quy định mới chứ không đơn thuần bê tông hóa không kiểm soát như Việt Nam. Trong khi đó, tại TP.HCM và nhiều địa phương, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, dẫn đến bê tông hóa tràn lan mà không có chính sách gì để kiểm soát.

NGUYÊN NHÂN CHÍNH GÂY NGẬP: TỪ TỐC ĐỘ ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN CÁC HỆ THỐNG BỎ QUA VÀ NGUỒN NƯỚC NGẦM

Một trong những nguyên nhân chính khiến TP.HCM ngày càng dễ ngập là tốc độ đô thị hóa quá nhanh. Hệ quả của việc này là bê tông hóa diện tích đất đai, hạn chế khả năng thấm nước tự nhiên. Trong quá khứ, chính quyền gần như không có chính sách rõ ràng giới hạn tỷ lệ bê tông trong xây dựng nhà ở dân cư. Các quy định từ năm 2006 bắt đầu xuất hiện, yêu cầu dành tối thiểu 20-30% diện tích cho cây xanh, hồ điều hòa, đất trồng cỏ. Tuy nhiên, các công trình nhà dân, đặc biệt các khu xây dựng trước đó, vẫn bỏ ngỏ, dẫn đến tình trạng ngập ngày càng trầm trọng.

Bên cạnh đó, hệ thống kênh rạch và hồ tự nhiên đã bị san lấp, lấn chiếm đến mức báo động. Theo ước tính sơ bộ, hơn 100 kênh rạch đã bị xóa sổ kể từ năm 1975, các hồ điều hòa tự nhiên cũng không còn nhiều. Những hồ này trước đây giữ vai trò quan trọng trong việc điều hòa nước, giảm tải cho hệ thống cống thoát nước và cung cấp nước tưới tiêu, nay hầu hết đã biến mất hoặc bị thu hẹp.

Không kém phần quan trọng là khai thác quá mức nguồn nước ngầm. Từ năm 1990 đến nay, mức độ sụt lún đất trung bình đạt 2-3 cm mỗi năm, cao điểm lên đến 6-8 cm ở một số khu vực. Trong năm 2018, chính quyền đặt mục tiêu giảm khai thác nước ngầm còn 100.000 m3/ngày vào năm 2025, nhưng đến đầu năm 2025, mục tiêu này đã nới lỏng lên 255.000 m3/ngày. Hậu quả của sụt lún đất không chỉ làm gia tăng ngập mà còn ảnh hưởng đến cấu trúc đô thị và mặt bằng xây dựng.

Hệ thống thoát nước của TP.HCM là một điểm yếu cố hữu. Được xây dựng từ thời Pháp thuộc, hệ thống này không theo kịp tốc độ phát triển dân số và đô thị hóa, gây ra các điểm ngập cục bộ mỗi khi mưa lớn hoặc triều cường. Từ sau năm 1990, các khoản đầu tư cải tạo, nâng cấp đã được thực hiện liên tục nhưng vẫn chưa đủ để xử lý triệt để tình trạng này.

Cuối cùng, triều cường là phần chìa khóa của vấn đề ngập sâu. Mặc dù nhiều nơi trên thế giới sử dụng các giải pháp kiểm soát theo kinh nghiệm quốc tế như Hà Lan hay Nhật Bản, nhưng ở TP.HCM, các phương pháp này gần như không phù hợp do đặc thù địa lý, thủy văn của khu vực. Dù đã có các dự án nghìn tỷ đồng để xây dựng đê điều, cống chống triều cường, thực tế phần lớn đều chưa thể giải quyết căn cơ vấn đề này.

THẢM HOẠI KINH TẾ VÀ YẾU TỐ MẤT KIỂM SOÁT

Ngập lụt kéo dài không chỉ gây khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày mà còn khiến nền kinh tế chịu thiệt hại nặng nề. Ước tính, mỗi năm TP.HCM thiệt hại hàng chục tỷ USD do ngập, từ hư hỏng hạ tầng, giảm năng lực vận chuyển, tới làm gián đoạn sản xuất.

Tình trạng nước thải chưa được xử lý triệt để càng làm tăng nguy cơ dịch bệnh, ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe cộng đồng. Trước năm 1990, hầu hết nước thải đều xả thẳng ra môi trường mà không qua xử lý. Hiện nay, TP đã đặt mục tiêu đến năm 2025 có gần 60% nước thải được xử lý, nâng cao đến 88% vào năm 2030. Tuy nhiên, chưa đầy 60% nước thải hiện vẫn thải thẳng ra môi trường, đem lại hiểm họa lớn cho sức khỏe cộng đồng và phát triển bền vững.

Tình trạng này dẫn đến, trong khu vực ngập, các nguồn nước thải chứa độc tố, mầm bệnh, gây bệnh da liễu, tiêu hóa, và làm tăng chi phí y tế. Thêm vào đó, bụi bẩn, ô nhiễm trong nước còn làm giảm khả năng sản xuất rau củ sạch, khiến các vùng ngập trở thành điểm đen về ô nhiễm môi trường và sức khỏe cộng đồng.

Thiết kế và quản lý hệ thống chống ngập của TP.HCM rõ ràng chưa phù hợp, chưa đủ mạnh để giải quyết các thách thức ngày càng lớn của đô thị, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và tác động của triều cường. Các bài học quốc tế và kinh nghiệm của các quốc gia phát triển cho thấy, cần có chiến lược dài hạn, đồng bộ và sáng tạo hơn để đối phó với vấn đề nan giải này.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *